Bà già đi chợ Cầu Đông, Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. - Lợi 1: lợi lộc, lợi ích - Lợi 2,3: phần thịt bao quanh chân răng. Tìm từ đồng âm và giải nghĩa a/ Bà già đi chợ Cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn Thảo luận nhóm- thời gian 5 phút Nhóm 1 – VD1. Sánh với Na-va “ranh tướng” Pháp Tiếng tăm nồng nặc ở Đông Dương Nhóm 2- VD2. “Bà già đi chợ cầu Đông. Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng. Thầy bói gieo quẻ nói rằng. Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn.” “Cái cò là cái cò kì. Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô. Đêm nằm thì ngáy o o. Chửa đi đến chợ đã lo ăn quà.” Câu 6 (trang 102 sgk Ngữ Bà già đi chợ Cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng Thầy bói gieo quẻ nói rằng Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn. Hướng dẫn trả lời: - Từ đồng âm: lợi - lợi - Giải nghĩa: lợi (1): bộ phận trong miệng của con người, là phần thịt bao giữ xung quanh chân răng Bà già đi chợ cầu Đông. Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng. Thầy bói xem quẻ nói rằng. Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. - Giải nghĩa: Lợi (1): chỉ lợi ích, những điều đem lại lợi cho con người Bà già đi chợ Cầu Đông Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng, Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn. 32. Nhà cô có con chó đen Người lạ nó cắn, người quen nó mừng Một hôm uống rượu lâng lâng Người quen nó cắn, nó vồ gãy tay. 33. 71WSj. Khi nghe câu ca dao nổi tiếng “Bà già đi chợ Cầu Đông. Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng...”, hắn sẽ có người thắc mắc chợ Cầu Đông là chợ nào, nằm ở đâu. Để tìm hiểu điều này, cần ngược dòng thời gian để truy tìm gốc tích địa danh Cầu Đông và chợ Cầu Đông. Theo đó, từ nhiều thế kỷ trước, sông Tô Lịch chảy qua phố cổ Hà Nội lòng sông là các phố Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch, Hàng Cá, Hàng Lược ngày nay, và có một cây cầu bắc qua sông ở ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Đường. Do cây cầu nằm ở phía Đông của thành Hà Nội nên dân gian gọi là Cầu Đông. Và khu chợ họp ở đầu cầu có tên gọi là chợ Cầu Đông. Đây là một khu chợ quan trọng trong 36 phố phường Hà Nội xưa, được cho là nơi “Bà già đi chợ Cầu Đông". Đến thời Pháp thuộc, khi đoạn sông Tô này bị lấp, hai chợ cũ Cầu Đông và chợ Bạch Mã giải thể và nhập thành chợ Đồng Xuân. Khi chợ Đồng Xuân được xây lại năm 1991, phố Cầu Đông được mở ra sát cạnh chợ Đồng Xuân, thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm. Sau đó chợ Cầu Đông “mới” được xây dựng ở đầu phố Cầu Đông. Như vậy có thể khẳng định, chợ Cầu Đông xưa nằm ở đầu cầu ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Đường gắn với hình ảnh "bà già đi xem bói" đã không còn nữa. Chợ Cầu Đông ngày nay chỉ mang một cái tên gợi nhớ về khu chợ cũ, và chắc hẳn là chẳng có bà già nào từng xem bói ở khu chợ mới toanh này cả. Trở về với thực tại, chợ Cầu Đông là một khu chợ cao tầng khang trang, cổng chính hướng ra phố Nguyễn Thiện Thuật. Cổng phụ thông ra phố Cầu Đông. Tầng một của chợ là nơi chuyên kinh doanh các mặt hàng kim loại, đồ cơ khí. Tầng hai bán các mặt hàng may mặc. Các tầng 3, 4 được dùng làm văn phòng hoặc phòng chức năng. Từ tầng hai của chợ Cầu Đông có một lối đi trên cao dẫn sang chợ Đồng Xuân. Do chợ Cầu Đông là một chợ mới xây và lại nằm sát chợ Đồng Xuân nổi tiếng nên có khá nhiều người Hà Nội không biết đến sự tồn tại của khu chợ này, hoặc nghĩ rằng đây chỉ là một phần mở rộng của chợ Đồng Xuân. Mời quý độc giả xem video Nghe ca khúc Việt Nam quê hương tôi. Bà già đi chợ Cầu Đông Bà già đi chợ Cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn! Cùng thể loại Bài thơ thuốc lào Người Việt Nam phải lấy thuốc lào làm quốc tuý Còn thú vị nào hơn thú vị yên vân! Từ vua, quan, đến hạng bình dân, Ai là chẳng bạn thân với điếu Từ ông thừa, trở lên cụ thiếu, Đi ngoài đường, phi điếu bất thành quan. Ngồi công đường, vin xe trúc nghênh ngang, Hút mồi thuốc, óc nhà quan thêm sáng suốt. Nhà thi sĩ gọt câu văn cho chuốt, Tất phải nhờ điếu thuốc gọi hồn thơ. Lại những khi óc mỏi, mắt mờ, Nhờ điếu thuốc mới có cơ tỉnh tớm Dân thuyền thợ thức khuya, dậy sớm, Phải cần dùng điếu đóm làm vui. Khi nhọc nhằn lau trán đẫm mồ hôi, Vớ lấy điếu, kéo một hơi thời cũng khoái. Dân cày cấy mưa dầm, nắng dãi, Bạn tâm giao với cái điếu cày. Lúc nghỉ ngơi, ngồi dưới bóng cây, Rít mồi thuốc, say ngây say ngất. Rồi ngả lưng trên đám cỏ tươi xanh ngắt, Dễ thiu thiu một giấc êm đềm. Bạn nhà binh canh gác thâu đêm, Nhờ điếu thuốc mới khỏi lim dim ngủ gật. Nội các thức say sưa nghiện ngập, Ngẫm mà coi, thú nhất thuốc lào. Nghiện thuốc lào là cái nghiện thanh tao, Chẳng hại tiền của, mà chẳng hao sĩ diện. Chốn phòng khách, anh em khi hội kiến, Có thuốc lào câu chuyện mới thêm duyên. Khi lòng ta tư lự không yên, Hút mồi thuốc cũng giải phiền đôi chút. Nghe tiếng điếu kêu giòn, nhìn khói bay nghi ngút, Nỗi lo buồn theo khói vút thăng thiên. Cái điếu cùng ta là bạn chí hiền, Từ thiên cổ tơ duyên chặt kết. Cũng có kẻ muốn dứt tình khăng khít, Vùi điếu đi cho hết đa mang. Nhưng nỗi nhớ nhung bứt rứt tấm gan vàng, Chút nghĩa cũ lại đa mang chi tận tuỵ. Cho nên bảo điếu thuốc lào là quốc tuý, Thật là lời chí lý không ngoa. Thuốc lào, ta hút điếu ta, Điếu ta thọ với sơn hà muôn năm… Dù anh văn hoá lớp mười Dù anh văn hoá lớp mười Anh chưa ra trận, em thời không yêu Dù anh sắc sảo, mỹ miều Nếu không ra trận, không yêu làm chồng Dị bản Dù em nhan sắc tuyệt vời Em không đánh Mỹ, anh thời không yêu Dù em duyên dáng, mỹ miều Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chồng Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Nên ta phải vượt Trường Sơn qua Lào Thủ đô xa tự năm nào Giã từ Tam Đảo, vẫy chào Điện Biên Nay mai chiến thắng trăm miền Thủ đô, Tam Đảo, Điện Biên lại về. Thái Bình có chú Phạm Tuân Thái Bình có chú Phạm Tuân Bay vào vũ trụ một tuần về ngay Dị bản Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Bay vào vũ trũ một tuần về ngay Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Học trò đi mò con gái Học trò đi mò con gái Thầy ở nhà xách dái chạy theo Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Học trò đi mò cá sặc Học trò đi mò cá sặc Thầy ở nhà cắt cặc nấu chua Học trò đi vùa bánh cúng Học trò đi vùa bánh cúng Thầy ở nhà xách thúng chạy theo Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ Mã tà có chú hay quơ hay quào Giận ai gươm chúng phao vào Báo quan nhà nghịch, vây rào xét coi Một đêm chẳng biết mấy chồng Một đêm chẳng biết mấy chồng Chà Và, Ma Ní cũng đồng “lội” qua Ngày thì hớn hở vào ra Ai xa xem thấy chị Ba ngoắt vào Cu cờm cu ngói cu xanh Cu cờm cu ngói cu xanh Cồ cồ xiêm, cồ cồ ta Ba nanh chuối sứ, ba nanh chuối già Có cùng từ khóa Chợ Chì là chợ Chì xa Chợ Chì là chợ Chì xa, Chồng mong, con khóc, chém cha chợ Chì Chưa học đui đã đòi bói gia sự Chưa học đui đã đòi bói gia sự Ai ra ngoài Sãi ngoài Sòng Ai ra ngoài Sãi ngoài Sòng Nhắn cô bán bưởi bán bòng ra đây Đố anh con rết mấy chân, Đố anh con rết mấy chân, Cầu ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người Chợ Dinh bán nón quan hai, Bán tua quan mốt, bộ quai năm tiền, Năm tiền một giạ đỗ xanh, Một cân đường cát, đưa anh lên đường. – Thôi thôi đường cát làm chi Đỗ xanh làm gì, có ngãi thì thôi. Chợ Sài Gòn bán chó, chợ Thầy Phó bán heo Chợ Sài Gòn bán chó, chợ Thầy Phó bán heo Thương em anh bơi xuồng xuống, lúc đứng lúc chèo Cả ngày đường xa vắng, nhưng em chê phận anh nghèo phải khổ tấm thân. Dị bản Chợ Ngã Năm bán chó, chợ Thầy Phó bán heo Thương em, anh giang xuồng lên xuống, lúc nghỉ lúc chèo Cả ngày đường xa mưa nắng, em chê phận anh nghèo, thiệt khổ tấm thân anh. Bớ chị em ơi! Đi chợ Bớ chị em ơi! Đi chợ Chợ nào bằng chợ Gò Chàm Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo Còn thêm bánh đúc bánh xèo Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u Những con cá chép cá thu Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon Ngó ra ngoài chợ Nẫu bán thịt phay Nem tươi chả lụa Rượu trà no say Ngó ra ngoài chợ Nẫu bán trạnh cày Roi mây, lưỡi cuốc Nẫu bày nghinh ngang Ngó ra ngoài chợ Nẫu bán sàn sàn Khoai lang, bắp đỗ ục, chàng, kéo, dao Xem ra chẳng sót hàng nào Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào đây mua … Vè chợ Lường Chợ Lường họp lại vui thay Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò Xã đã khéo lo Lập lều hai dãy Hàng sồi hàng vải Thì kéo lên đình Hàng xén xung quanh Hàng thịt hàng lòng ở giữa Ngong vô trửa chợ Chộ thị với hồng Dòm ngang xuống sông Chộ thuyền với lái Ngong sang bên phải Chộ những vịt gà Hàng nhãn, hàng na Hàng trầu, hàng mấu Hàng ngô, hàng đậu Hàng mít, hàng cà Hàng bánh, hàng quà Hàng chi có cả Rồi nào hàng cá Hàng bưởi, hàng bòng … Bảng treo tại chợ Cai Tài Bảng treo tại chợ Cai Tài Bên văn bên võ ai có tài ra thi. Thừa tiền thì đem mà cho Thừa tiền thì đem mà cho Đừng dại xem bói rước lo vào mình Khôn như tinh đến Giang Đình cũng mắc Khôn như tinh đến Giang Đình cũng mắc Cầu Đông Một cây cầu bắc qua con hào Sào Khê xuyên dọc kinh đô Hoa Lư và hiện tại là cửa ngõ phía đông vào khu di tích cố đô Hoa Lư, thuộc địa bàn tỉnh Ninh Bình. Cầu Đông nằm trên đường cửa đông còn cầu Dền nằm gần cửa bắc, kẹp giữa chúng là chợ Cầu Đông với phố Chợ dài 500m. Chợ Cầu Đông ngày nay Thuốc lào Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo cỏ nhớ thương, vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào cũng gọi là ăn thuốc lào cần có công cụ riêng gọi là điếu. Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào. Hút thuốc lào bằng ống điếu Quốc túy Cái đặc sắc về tinh thần hoặc vật chất của một dân tộc. Yên vân Khói yên mây vân. Thừa Một chức vụ nhỏ trong các nha phủ dưới thời phong kiến. Phi điếu bất thành quan Không có điếu cày không thể thành quan. Đa mang Tự vương vấn vào nhiều tình cảm để rồi phải đeo đuổi, vấn vương, dằn vặt không dứt ra được. Thôi em chả dám đa mang nữa Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng Xuân tha hương - Nguyễn Bính Sơn hà Núi sông từ Hán Việt. Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước. Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Lý Thường Kiệt Dịch thơ Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Hệ giáo dục phổ thông miền Bắc từ năm 1956 đến năm 1985 chia làm ba cấp cấp I bốn năm, cấp II và cấp III mỗi cấp ba năm, tổng cộng là mười năm. Giôn-xơn Lyndon Baines Johnson, tổng thống thứ 36 của Mỹ, nắm giữ hai nhiệm kì từ năm 1963 đến năm 1969. Ông này chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, mà tiêu biểu là việc triển khai quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Tổng thống Mỹ Johnson Trường Sơn, Lào, Thủ Đô, Tam Đảo, Điện Biên đều là tên của các nhãn hoặc loại thuốc lá phổ biến ở miền Bắc vào những năm 1960-1970. Thuốc lá Điện Biên Thái Bình Địa danh nay là một tỉnh ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km. Phần đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay trước đây thuộc về trấn Sơn Nam. Tới năm Thành Thái thứ hai 1890 tỉnh Thái Bình được thành lập. Tỉnh có nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như bãi biển Đồng Châu, cồn Vành, chùa Keo... Các ngành nghề truyền thống như chạm bạc, làm chiếu ở đây cũng khá phát triển. Ngoài ra, Thái Bình còn được mệnh danh là Quê Lúa. Bãi biển Đồng Châu Cá sặc Một loại cá đồng, có rất nhiều ở vùng Tây Nam Bộ vào mùa nước nổi. Người dân Nam Bộ thường đánh bắt cá sặc để làm khô cá, mắm sặc, hoặc nấu thành nhiều món ăn ngon như gỏi, cháo, canh chua bông súng... Khô cá sặc Vùa Gom góp hết về phía mình. Từ này ở miền Trung và miền Nam được phát âm thành dùa. Mã tà Lính cảnh sát thời thuộc địa. Nguồn gốc của từ này đến nay vẫn chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ tiếng Mã Lai là mata-mata, có nghĩa là "cảnh sát," lại có người cho rằng xuất xứ từ này là matraque, tiếng Pháp nghĩa là cái dùi cui. Chà Và Việt hóa từ âm chữ Java, chỉ đảo Java ở Indonesia. Nhưng do từ xưa, người Việt chưa phân biệt rõ về địa lý và nhân chủng của khu vực biển đảo phía nam nên dùng từ "người Chà Và" để gọi chung những người có nguồn gốc từ Ấn Độ, Malaysia, Indonesia di cư đến Việt Nam. Ma Ní Còn gọi Ma Ni, tức người từ Manille thủ đô Philippines, xưa ta gọi là Phi Luật Tân, Lữ Tống, trước làm lính thuộc địa của Tây Ban Nha, được Pháp thuê trong thời kì đô hộ nước ta. Theo bài Tính chất phản kháng trong thơ văn bình dân Nam-kỳ thời Pháp thuộc của Long Điền "Cồ cồ" tức coco là trái dừa, "ba nanh" tức banane là trái chuối. Quần chúng đã kết hợp tài tình hai thứ tiếng để chế giễu bọn bồi bếp, bọn ăn học chẳng ra gì nhưng lại được thực dân trọng dụng. Chợ Chì Ngôi chợ ở làng Chì, nay thuộc địa phận xã Bồng Lai, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Gia sự Những chuyện trong nhà từ Hán Việt. Sãi Một địa danh nay thuộc xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sãi là gọi theo chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, người đã cho lập nên vùng đất này. Tại đây có chợ Sãi nổi tiếng với món nem lụi. Chợ Sòng Một địa danh nay thuộc làng Kim Đâu, xã Cam An, huyện Cam Lộ, Quảng Trị, cũng là tên một ngôi chợ ở đây. Chợ Sòng cùng với chợ phiên Cam Lộ từng là hai trung tâm thương mại sầm uất nhất Quảng Trị ngày trước. Theo Phủ biên tạp lục Xã Phổ-lạc huyện Đăng-xương tục gọi là Chợ Sòng đấy là nơi đường thủy, đường bộ đến thâu tập lại, đi về tất phải qua lối ấy, tự chợ ấy theo con đường chính mà đi, qua cửa Điếu-ngao đến dinh Cát thì trong một trống canh. Cầu Ô Thước Chiếc cầu trong điển tích Ngưu Lang - Chức Nữ, tượng trưng cho sự sum họp đôi lứa. Chợ Dinh Một ngôi chợ nay thuộc thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Quan Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý cổ tiền, một quan bằng 60 tiền 600 đồng kẽm. Với tiền gián sử tiền, một quan bằng 360 đồng kẽm. Giạ Đồ đong lúa đan bằng tre có chỗ ghép bằng gỗ, giống cái thúng sâu lòng, thường đựng từ 10 ô trở lại, thường thấy ở miền Trung và Nam Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Của. Một giạ ta tùy địa phương lại có giá trị khác nhau, từ 32 cho tới 45 lít, giạ tây thời Pháp đô hộ chứa 40 lít. Đến giữa thế kỉ 20 xuất hiện loại giạ thùng được gò bằng tôn, chứa 40 lít. Giạ đong lúa bằng gỗ Ngãi Nghĩa, tình nghĩa phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chợ Bến Thành Còn gọi là chợ Sài Gòn, ban đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, nằm bên cạnh sông Bến Nghé, gần thành Gia Định nên được gọi là Bến Thành. Sau một thời gian, chợ cũ xuống cấp, người Pháp cho xây mới lại chợ tại địa điểm ngày nay. Chợ mới được xây trong khoảng hai năm 1912-1914, cho đến nay vẫn là khu chợ sầm uất bậc nhất của Sài Gòn, đồng thời là biểu tượng của thành phố. Chợ Bến Thành Chợ Thầy Phó Tên mới là chợ Hựu Thành, một cái chợ ở Thầy Phó, tỉnh Vĩnh Long. Chợ Thầy Phó hiện nay Xem phóng sự về chợ Thầy Phó. Chợ Gò Chàm Tên một phiên chợ ở Bình Định. Trước đây chợ ở cách thị trấn Bình Định khoảng hai cây số về phía Bắc. Vùng này có tên là xứ Lam Kiều vì trồng nhiều cây chàm để nhuộm vải, vì vậy chợ có tên chữ là Lam Kiều thị. Đúng ra phải gọi là chợ Cầu Chàm, nhưng dân chúng lại quen gọi là chợ Gò Chàm. Bởi đó, có người còn cho rằng chợ được lập trên vùng đất gò có nhiều mồ mả người Chàm. Năm 1940, chợ Gò Chàm dời vào khu đất phía đông bắc bên ngoài thành Bình ịnh, sát với khu phố của thị trấn và đổi tên là chợ Bình ịnh, hay chợ Thành, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn giữ vai trò lớn nhất tỉnh, nhóm chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu phiên vào các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28 tháng chạp âm lịch nhóm suốt ngày đêm và đông hơn các phiên chợ khác trong năm. Chợ Bình Định ngày nay Bánh đúc Bánh nấu bằng bột gạo tẻ hoặc bột ngô quấy với nước vôi trong, khi chín đổ ra cho đông thành tảng, thường được ăn kèm với mắm tôm. Bánh đúc là món quà quen thuộc của làng quê. Bánh đúc Hà Nội Bánh xèo Một loại bánh làm bằng bột, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá, đúc hình tròn. Tùy theo mỗi vùng mà cách chế biến và thưởng thức bánh xèo có khác nhau. Ở Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, đậu phộng. Ở miền Nam, bánh có cho thêm trứng, chấm nước mắm chua ngọt. Ở miền Bắc, nhân bánh xèo còn có thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi. Các loại rau ăn kèm với bánh xèo rất đa dạng gồm rau diếp, cải xanh, diếp cá, tía tô, rau húng, lá quế, lá cơm nguội non... Bánh xèo Bánh khô Còn gọi là bánh khô mè, hoặc bánh khô khổ, là một loại bánh miền Trung, làm từ bột gạo nếp, đường và mè. Bánh khô mè Cẩm Lệ - Quảng Nam Bánh nổ Một loại bánh đặc sản của miền Trung. Bánh làm bằng gạo nếp rang cho nổ bung ra nên có tên là bánh nổ, trộn với nước đường nấu sôi và gừng giã nhỏ, cho vào khuôn hình chữ nhật. Bánh ăn có vị ngọt của đường, bùi của nếp và cay của gừng. Bánh nổ Bánh bèo Một món bánh rất phổ biến ở miền Trung và miền Nam. Bánh làm từ bột gạo, có nhân phía trên mặt bánh làm bằng tôm xay nhuyễn. Nước chấm bánh bèo làm từ nước mắm, và thường đổ trực tiếp vào bánh chứ không cần chấm. Thành phần phụ của bánh bèo thường là mỡ hành, đậu phộng rang giã nhỏ. Tuỳ theo địa phương, có những cách thêm bớt khác nhau cho món bánh này, ví dụ ở Sài Gòn thường bỏ đậu xanh, đồ chua, lại cho ăn kèm bánh đúc, bánh ít, bánh bột lọc... Bánh bèo Cá chép Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh. Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. Cá chép Cá thu Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon. Cá thu Cá ngừ Một loài cá biển đặc biệt thơm ngon, mắt rất bổ, được chế biến thành nhiều loại món ăn ngon và hiện nay là nguồn hàng xuất khẩu có giá trị. Nghề câu cá ngừ đại dương tại Việt Nam ra đời năm 1994, nhờ công sức phát hiện ra phương pháp câu của ngư dân Phú Yên. Sau đó nghề này dần lan rộng, trở thành thế mạnh của ngư dân duyên hải Nam Trung Bộ như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa... Cá ngừ Cá nục Một loại cá biển, có rất nhiều ở các vùng biển miền Trung. Cá nục được dùng làm nguyên liệu chính cho nhiều món ăn ngon như cá nục sốt cà, cá nục kho, cá nục hấp cuốn bánh tráng... Cá nục Cá ngừ chù Gọi tắt là cá chù, một loại cá thuộc họ cá ngừ, có nhiều ở các vùng biển miền Trung. Tại đây cá ngừ chù được xem là “cá nhà nghèo,” món quen thuộc trong giỏ đi chợ của các bà nội trợ. Những món ăn từ cá ngừ chù có cà ngừ kho dưa gang, cá ngừ rim cà chua, cá ngừ hấp... Cá ngừ chù Ngó Nhìn, trông phương ngữ Trung và Nam Bộ. Nậu Nghĩa gốc là một nhóm nhỏ cùng làm một nghề nên có từ "đầu nậu" nghĩa là người đứng đầu. Ví dụ “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng, “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối, “Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá, “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm... Từ chữ “Nậu” ban đầu, phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba cả số ít và số nhiều bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ Ông ấy, bà ấy được thay bằng “ổng,” “bả.” Anh ấy, chị ấy được thay bằng “ảnh,” “chỉ.” Và thế là “Nậu” được thay bằng “Nẩu” hoặc "Nẫu" do đặc điểm không phân biệt dấu hỏi/ngã khi phát âm của người miền Trung. Người dân ở những vùng này cũng gọi quê mình là "Xứ Nẫu." Trạnh cày Cũng gọi là diệp cày, bộ phận thường bằng sắt hoặc gang, lắp tiếp trên lưỡi cày, có tác dụng nâng, tách và lật đất cày. Dùi đục Còn gọi là đục, dụng cụ gồm một thanh thép có chuôi cầm, đầu có lưỡi sắc, dùng để tạo những chỗ lõm hoặc những lỗ trên các vật rắn như gỗ, đá, kim loại. Sử dụng dùi đục Chàng Dụng cụ của thợ mộc gồm một lưỡi thép dẹp hình tam giác tra vào cán, dùng để vạt gỗ đẽo xiên. Dùng chàng Quảng Nam Tên một tỉnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, trước đây bao gồm cả thành phố Đà Nẵng, gọi chung là tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Quảng Nam có nghĩa là "mở rộng về phương Nam." Tỉnh Quảng Nam giàu truyền thống, độc đáo về bản sắc văn hóa với những danh tích như thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An... Vẻ đẹp Hội An Quảng Ngãi Địa danh nay là một tỉnh nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, nằm hai bên bờ sông Trà Khúc, được mệnh danh là vùng đất Núi Ấn Sông Trà. Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa, đặc biệt là hệ thống thành lũy Chàm. Tại đây cũng nổi tiếng cả nước với đặc sản đường mía đường phèn, đường phổi, mạch nha... và tỏi ở Lý Sơn. Núi Ấn sông Trà Chợ Lường Tên dân gian của chợ Đô Lương, một ngôi chợ nay thuộc địa phận huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Thời Pháp thuộc, chợ là địa điểm tập trung dân phu để đi làm đường. Đến bây giờ, chợ Lường vẫn được coi như là biểu tượng của cảnh bán buôn sầm uất, tấp nập trong vùng. Tru Trâu phương ngữ một số vùng Bắc Trung Bộ. Lụa sồi Lụa dệt bằng tơ tằm nhưng sợi thô, nếu sợi dệt xe đôi thì gọi là sồi xe, khác với lụa tơ tằm được dệt bằng tơ tằm sợi nhỏ nên mỏng, mềm và mịn hơn. Hàng xén Cửa hàng tạp hóa hoặc gánh hàng chuyên bán những thứ vặt vãnh như kim, chỉ, đá lửa, giấy bút... Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm Ngong Ngóng phương ngữ Bắc Trung Bộ. Trửa Giữa phương ngữ Bắc Trung Bộ. Chộ Thấy phương ngữ Bắc Trung Bộ. Hồng Loại cây cho trái, khi chín có màu vàng cam hoặc đỏ. Tùy theo giống hồng mà quả có thể giòn hoặc mềm, ngọt hoặc còn vị chát khi chín. Quả hồng Mấu Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Mấu, hãy đóng góp cho chúng tôi. Chi Gì phương ngữ Trung và Nam Bộ. Bòng Một loại quả rất giống bưởi. Ở một số tỉnh miền Trung, người ta không phân biệt bưởi và bòng. Trong ca dao hay có sự chơi chữ giữa chữ "bòng" trong "đèo bòng" và quả bòng. Chợ Cai Tài Một chợ xưa thuộc làng Huê Mỹ Thạnh, phủ Tân An, nay là xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Phủ đường phủ Tân An ngày ấy đặt ở gần đây. Chợ Giang Đình Trước đây có tên là chợ Văn, ngôi chợ nằm trên bến Giang Đình, nay thuộc thị trấn Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sau này chợ được chuyển xuống phía dưới cửa sông Tân Quyết đổ ra sông Lam, cách đó khoảng 500m, và được xây lại. YOMEDIA Cho câu ca dao Bà già đi chợ Cầu Đông Bói xem một quẻ Lấy chồng lợi chăng Thầy bói xem quẻ nói rằng Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn Em hãy trình bày hiểu biết của em về câu ca dao trên = 1 đoạn văn Thứ 6 mk phải nộp r giúp mk với T_T Theo dõi Vi phạm Trả lời 1 sử dụng từ đồng âm -Bài ca dao trên có hiện tượng đồng âm vì tiếng " lợi " ở câu thơ thứ 2 có nghĩa là lợi ích, cái được cho mình; còn tiếng " lợi " ở câu thơ thứ 4 lại có nghĩa là lợi là 1 phần trên cơ thể người ở phần miệng. Như vậy ta thấy nghĩa của 2 từ này khác xa nhau nên đây là hiện tượng đồng âm. Like 0 Báo cáo sai phạm Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời. Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội! Lưu ý Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản Gửi câu trả lời Hủy ZUNIA9 Các câu hỏi mới Viết bài văn kể về việc làm tốt tốt em đã làm khiến bố mẹ vui lòng Kể về việc làm tốt khiến bố mẹ vui lòng 28/10/2022 1 Trả lời Kể kỉ niệm với con vật nuôi mà em yêu thích Kể kỉ niệm về con vật nuôi mà em yêu thích 29/10/2022 0 Trả lời Kể kỉ niệm với con vật nuôi mà em yêu thích Kể kỉ niệm về con vật nuôi mà em yêu thích 29/10/2022 0 Trả lời Đóng vai nhân vật chị Dậu kể lại cuộc đối đầu giữa Chị Dậu với bọn tay sai trong đoạn trích"Tức nước vỡ bờ" trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố _Đóng vai nhân vật kể lại cuộc đối đầu giữa Chị Dậu với bọn tay sai trong đoạn trích"Tức nước vỡ bờ" trích "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. 01/11/2022 0 Trả lời Dấu hỏi chấm sau câu "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận." 01/11/2022 0 Trả lời Kể lại cái chết của lão Hạc Giúp mình với mình cần gấp 06/11/2022 0 Trả lời Nêu ý nghĩa văn bản Chiếc bát vỡ Ở thành phố kia có một bác thợ rèn, bác có một người con trai duy nhất. Bác rất quý anh vì từ bé tới lớn anh đều là một con người xuất chúng. Anh vừa đẹp trai vừa giỏi giang, làm bố rất tự hào. Một ngày nọ, không may cậu bị tai nạn xe hơi, tuy giữ được tính mạng nhưng lại bị mất cả hai chân. Tuyệt vọng, hàng ngày anh ngồi ủ rũ trong phòng, im lặng nhìn ra cửa sổ. Một lần, vì quá đau khổ, anh tìm cách tự tử bằng cách uống thuốc ngủ, nhưng may thay cha anh kịp thời phát hiện đưa anh tới bệnh viện, cứu anh qua cơn nguy kịch. Một ngày sau người con trai tỉnh, bác thợ rèn mang đồ ăn tới cho con. Anh con trai tức giận hất đổ khay đồ ăn, rồi chỉ chiếc bát vỡ dưới nền, nói – Cha à, cha cứu con làm gì, cuộc đời con giờ như chiếc bát vỡ kia rồi, mãi mãi không lấy lại được nữa! Người cha già tội nghiệp lặng lẽ xoa đầu người con trai, vỗ về rồi giúp anh nằm nghỉ. Xong ông dọn dẹp những thứ dưới đất, đôi mắt ông đỏ hoe. Một tuần sau anh được đưa trở nhà. Anh thấy trên bàn mình có một chiếc bát sắt. Anh lấy làm lạ lẫm. Xem thêm Người vợ mù – Con có biết nguồn gốc chiếc bát sắt này không, con trai? – Ưm…ý cha là? – Anh ấp úng nói. – Chính là chiếc bát sành hôm trước đó con, cha cho nó vào lò nung, cho thêm sắt nữa, rồi đúc ,thế là nó trở thành chiếc bát sắt này đó con. Ông tiếp – Con à, cuộc đời chúng ta có lúc sẽ như chiếc bát vỡ. Nhưng chỉ cần ta cho thêm khát vọng sống rồi nung trong ý chí, xong đúc trong tình yêu thì mọi chuyện sẽ lại ổn con à. Thì dù có đập, có ném thế nào ta cũng sẽ không bao giờ vỡ nữa đâu con. – Vâng, thưa cha, con đã hiểu. Nói rồi anh vươn người ôm lấy cha mình. Cả hai cha con cùng khóc vì xúc động. 06/11/2022 0 Trả lời Nêu cảm nhận của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ Nêu cảm nhận của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ 08/11/2022 0 Trả lời Cách nhận biết nội dung đề tài ,bối cảnh,chi tiết tiêu biểu , phương thức biểu đạt - nhận biết nội dung đề tài ,bối cảnh,chi tiết tiêu biểu , phương thức biểu đạt -nhận bt đc các từ tượng hình, từ tượng thanh, trợ từ thán từ và chỉ ra tác dụng 09/11/2022 0 Trả lời Hãy đóng vai Giôn-xi kể lại câu chuyện cô đi thăm cụ Bơ-men ac giúp e với ạ e đang cần gấp 10/11/2022 0 Trả lời Viết một một bài bút ký về thầy cô hoặc mái trường cíu đi màcái này là toi phải làm tập san cho trường á 10/11/2022 0 Trả lời Nội dung chính của ngữ liệu Nhà Nghèo,Tô Hoài từ hình ảnh phía dưới 12/11/2022 0 Trả lời Kể lạI cái chết của Lão Hạc Giúp mình với 13/11/2022 0 Trả lời Kể lại cuộc gặp gỡ người thân sau 1 năm xa cách kể lại cuộc gặp gỡ người thân sau 1 năm xa cách 13/11/2022 0 Trả lời Làm sao để có tình bạn đẹp ? Viết đoạn văn ngắn rút ra bài học từ văn bản trên. Đọc văn bản sau và trả lời những câu hỏi Lỗi lầm và sự biết ơn Hai người bạn cùng đi qua sa mạc. Trong chuyến đi, giữa hai người có xảy ra một cuộc tranh luận và một người nổi nóng không kiềm chế được mình nên đã nặng lời miệt thị người kia. Cảm thấy bị xúc phạm, anh không nói gì, chỉ viết lên cát Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã làm khác đi những gì tôi nghĩ. Họ đi tiếp, tìm thấy một ốc đảo và quyết định đi bơi. Người bị miệt thị lúc nãy bây giờ bị đuối sức và chìm dần xuống. Người bạn kia đã tìm cách cứu anh. Khi đã lên bờ, anh lấy một miếng kim loại khắc lên đá Hôm nay người bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi. Người kia hỏi Tại sao khi tôi xúc phạm anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại khắc lên đá? Anh ta trả lời Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xóa nhòa theo thời gian, nhưng không ai có thể xóa được những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người. Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá. theo Hạt giống tâm hồng Câu 1 Làm sao để có tình bạn đẹp ? câu 2 viết đoạn văn ngắn rút ra bài học từ văn bản trên em đang cần gấp ạ giúp em với ạ 14/11/2022 0 Trả lời Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật được nói đến trong 2 đoạn ngữ liệu sau đây Ngữ liệu 1 Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ. Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng những bà già tính cẩn thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bào bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi… Trích truyện ngắn “ Một bữa no”, Nam Cao Ngữ liệu 2 Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn... Trích Hai đứa trẻ,Thạch Lam 16/11/2022 0 Trả lời Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật được nói đến trong 2 đoạn ngữ liệu sau đây Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật được nói đến trong 2 đoạn ngữ liệu sau đây Ngữ liệu 1 Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ. Tuy vậy mà bà vẫn phải ăn. Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao? Thức ăn không bao giờ tự nhiên chạy vào mồm. Có làm thì mới có. Nhưng bây giờ yếu đuối rồi, bà không còn kham được những việc nặng nề, cũng không còn chịu đựng được nắng sương. Bà phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi. Mới đầu còn có nhiều người muốn thuê. Ai cũng nghĩ rằng những bà già tính cẩn thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng xóm… Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng thuê một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu ác! Nhưng bà lão đầu đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con người tệ. Mà bà thì lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở lòng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà bào bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn. Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Không ai có thừa cơm nuôi báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã hơn ba tháng rồi… Trích truyện ngắn “ Một bữa no”, Nam Cao Ngữ liệu 2 Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn... Trích Hai đứa trẻ,Thạch Lam 16/11/2022 0 Trả lời Viết 1 đoạn văn kể về kỉ niệm của mình vói người bạn thân có sử dụng yếu tố miêu tả biểu cảm Viết 1 đoạn văn kể về kỉ niệm của mình vói người bạn thân có sử dụng yếu tố miêu tả biểu cảm 17/11/2022 0 Trả lời Viết bài văn nói về lòng kiên trì sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm nói về lòng kiên trì sử dụng yếu tố miêu tả +biểu cảm 17/11/2022 0 Trả lời Có nhận định cho rằng Ai ma tốp đã khơi dậy, mở đường cho một xã hội phát triển và tiến bộ hơn bằng sự hiểu biết của em qua văn bản "Hai cây phong". Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên Có nhận định cho rằng Ai ma tốp đã khơi dậy,mở đường cho một xã hội phát triển và tiến bộ hơn bằng sự hiểu biết của em qua văn bản "Hai cây phong" hãy làm sáng tỏ nhận định trên Nêu nhận định 22/11/2022 0 Trả lời Viết một bài văn giới thiệu về tác giả thơ mới Viết một bài văn giới thiệu về tác giả thơ mới - Giới thiệu chung tên, quê, xuất thân, năm sinh, năm mất - Cuộc đời - con người tiểu sử - Sự nghiệp sáng tác + Tác phẩm chính + Phong cách sáng tác + Vị trí trong nên văn học 24/11/2022 0 Trả lời Theo em, nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-Xi? Theo em nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-Xi 25/11/2022 0 Trả lời Theo em, nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-xi? Theo em nguyên nhân nào quyết định sự hồi sinh Giôn-Xi Giúp mình với ạ 25/11/2022 1 Trả lời Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về tịnh thần tự học trong đoạn văn sử dụng ít nhất 2 câu ghép viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về tịnh thần tự học trong đoạn văn sử dụng ít nhất 2 câu ghép giúp mik với ak mik cần gâsp 28/11/2022 0 Trả lời Người xưa có câu “Lá lành đùm lá rách” khuyên chúng ta điều gì? Trong câu Người xưa có câu “Lá lành đùm lá rách” khuyên chúng ta phải yêu thương và đùm bọc lẫn nhau Dấu ngoặc có có ý nghĩa gì 28/11/2022 0 Trả lời ZUNIA9 XEM NHANH CHƯƠNG TRÌNH LỚP 8 YOMEDIA Nằm ở đầu phố Cầu Đông, cạnh chợ Đồng Xuân ở Hà Nội, chợ Cầu Đông là một khu chợ khiến nhiều người liên tưởng đến câu ca dao “Bà già đi chợ Cầu Đông". Nhưng thực tế giữa chợ này và câu ca dao có mối liên quan nào không?Để tìm hiểu điều này, cần ngược dòng thời gian để truy tìm gốc tích địa danh Cầu Đông và chợ Cầu Đông. Theo đó, từ nhiều thế kỷ trước, sông Tô Lịch chảy qua phố cổ Hà Nội lòng sông là các phố Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch, Hàng Cá, Hàng Lược ngày nay, và có một cây cầu bắc qua sông ở ngã tư Ngõ Gạch - Hàng cây cầu nằm ở phía Đông của thành Hà Nội nên dân gian gọi là Cầu Đông. Và khu chợ họp ở đầu cầu có tên gọi là chợ Cầu Đông. Đây là một khu chợ quan trọng trong 36 phố phường Hà Nội xưa, được cho là nơi “Bà già đi chợ Cầu Đông".Đến thời Pháp thuộc, khi đoạn sông Tô này bị lấp, hai chợ cũ Cầu Đông và chợ Bạch Mã giải thể và nhập thành chợ Đồng chợ Đồng Xuân được xây lại năm 1991, phố Cầu Đông được mở ra sát cạnh chợ Đồng Xuân, thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn đó chợ Cầu Đông “mới” được xây dựng ở đầu phố Cầu vậy có thể khẳng định, chợ Cầu Đông xưa nằm ở đầu cầu ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Đường gắn với hình ảnh "bà già đi xem bói" đã không còn Cầu Đông ngày nay chỉ mang một cái tên gợi nhớ về khu chợ cũ, và chắc hẳn là chẳng có bà già nào từng xem bói ở khu chợ mới toanh này về với thực tại, chợ Cầu Đông là một khu chợ cao tầng khang trang, cổng chính hướng ra phố Nguyễn Thiện phụ thông ra phố Cầu một của chợ là nơi chuyên kinh doanh các mặt hàng kim loại, đồ cơ hai bán các mặt hàng may tầng 3, 4 được dùng làm văn phòng hoặc phòng chức tầng hai của chợ Cầu Đông có một lối đi trên cao dẫn sang chợ Đồng chợ Cầu Đông là một chợ mới xây và lại nằm sát chợ Đồng Xuân nổi tiếng nên có khá nhiều người Hà Nội không biết đến sự tồn tại của khu chợ này, hoặc nghĩ rằng đây chỉ là một phần mở rộng của chợ Đồng quý độc giả xem video Nghe ca khúc Việt Nam quê hương tôi. Nằm ở đầu phố Cầu Đông, cạnh chợ Đồng Xuân ở Hà Nội, chợ Cầu Đông là một khu chợ khiến nhiều người liên tưởng đến câu ca dao “Bà già đi chợ Cầu Đông". Nhưng thực tế giữa chợ này và câu ca dao có mối liên quan nào không? Để tìm hiểu điều này, cần ngược dòng thời gian để truy tìm gốc tích địa danh Cầu Đông và chợ Cầu Đông. Theo đó, từ nhiều thế kỷ trước, sông Tô Lịch chảy qua phố cổ Hà Nội lòng sông là các phố Nguyễn Siêu, Ngõ Gạch, Hàng Cá, Hàng Lược ngày nay, và có một cây cầu bắc qua sông ở ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Đường. Do cây cầu nằm ở phía Đông của thành Hà Nội nên dân gian gọi là Cầu Đông. Và khu chợ họp ở đầu cầu có tên gọi là chợ Cầu Đông. Đây là một khu chợ quan trọng trong 36 phố phường Hà Nội xưa, được cho là nơi “Bà già đi chợ Cầu Đông". Đến thời Pháp thuộc, khi đoạn sông Tô này bị lấp, hai chợ cũ Cầu Đông và chợ Bạch Mã giải thể và nhập thành chợ Đồng Xuân. Khi chợ Đồng Xuân được xây lại năm 1991, phố Cầu Đông được mở ra sát cạnh chợ Đồng Xuân, thuộc phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm. Sau đó chợ Cầu Đông “mới” được xây dựng ở đầu phố Cầu Đông. Như vậy có thể khẳng định, chợ Cầu Đông xưa nằm ở đầu cầu ngã tư Ngõ Gạch - Hàng Đường gắn với hình ảnh "bà già đi xem bói" đã không còn nữa. Chợ Cầu Đông ngày nay chỉ mang một cái tên gợi nhớ về khu chợ cũ, và chắc hẳn là chẳng có bà già nào từng xem bói ở khu chợ mới toanh này cả. Trở về với thực tại, chợ Cầu Đông là một khu chợ cao tầng khang trang, cổng chính hướng ra phố Nguyễn Thiện Thuật. Cổng phụ thông ra phố Cầu Đông. Tầng một của chợ là nơi chuyên kinh doanh các mặt hàng kim loại, đồ cơ khí. Tầng hai bán các mặt hàng may mặc. Các tầng 3, 4 được dùng làm văn phòng hoặc phòng chức năng. Từ tầng hai của chợ Cầu Đông có một lối đi trên cao dẫn sang chợ Đồng Xuân. Do chợ Cầu Đông là một chợ mới xây và lại nằm sát chợ Đồng Xuân nổi tiếng nên có khá nhiều người Hà Nội không biết đến sự tồn tại của khu chợ này, hoặc nghĩ rằng đây chỉ là một phần mở rộng của chợ Đồng Xuân. Mời quý độc giả xem video Nghe ca khúc Việt Nam quê hương tôi. Đọc các ví dụ sau và trả lời câu hỏi ở dưới đâyBà già đi chợ Cầu Đông,Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?Thầy bói xem quẻ nói rằngLợi thì có lợi nhưng răng không cònCa daoSánh với Na-va “ranh tướng” PhápTiếng tăm nồng nặc ở Đông Dương. Tú MỡMênh mông muôn mẫu một màu mưaMỏi mắt miên man mãi mịt mờ Tú MỡCon cá đối bỏ trong cối đá,Con mèo cái nằm trên mái kèo,Trách cha mẹ nghèo, anh nỡ phụ duyên em.Ca daoNgọt thơm sau lớp vỏ gai,Quả ngon lớn mãi cho ai đẹp cô mời bác ăn cùng,Sầu riêng mà hoá vui chung trăm nhà.Phạm Hổa Cách sử dụng từ ngữ trong mỗi ví dụ trên có gì đặc điểm ?b Cách sử dụng từ ngữ như vậy có tác dụng gì ?c Cách sử dụng từ ngữ trên được gọi là chơi chữ, theo em, thế nào là chơi chữ ?

bà già đi chợ cầu đông